Tôi – trong những ngày tuổi mới lớn, còn chưa kịp dựng nổi cái gọi là “lòng tự trọng”,
đã bị cuộc sống đập cho tan nát tơi tả.
Lúc ấy tôi chỉ nghĩ: chỉ cần có thể sống tiếp, thì có thể tận dụng bất cứ điều gì cũng được.
Tôi không cam lòng lấy chồng vào lúc này.
Tôi muốn đi học, tôi muốn kiếm tiền.
Những ngày phải ngửa tay xin ăn, thực sự rất khó sống.
Tôi phải bám vào tất cả những gì mình nắm được,
Không từ thủ đoạn, chỉ để sống tiếp.
Vì thế, tôi làm bộ đắn đo mấy lần, cuối cùng dưới lời khuyên nhủ của Cố Dĩ Thành, tôi ăn sạch hộp cơm ấy, ăn rất ngon lành.
Rất nhiều năm sau, tôi vẫn nhớ rõ khung cảnh lúc ăn hộp cơm đó.
Miếng cà tím cắn vào, toàn là nước thịt thấm đẫm.
Ăn cùng cơm trắng, nhai một cái là thấy mãn nguyện khôn tả.
Ăn no, tôi ngẩng đầu lên, Cố Dĩ Thành vẫn còn đang ăn.
Gió thổi xào xạc qua cành lá, bóng cây đổ lên người cậu chập chờn lay động.
Tựa như một giấc mơ xa xôi hồi tôi năm, sáu tuổi – mơ hồ, không chân thật.
Từ sau ngày hôm đó, suốt một thời gian dài,
Tôi sống nhờ vào lòng tốt của Cố Dĩ Thành.
Tôi không có thời gian để vun đắp tình bạn,
Cũng chẳng có chút tình thân nào để mà chăm bón.
Ngoài việc học, toàn bộ cuộc sống của tôi xoay quanh Cố Dĩ Thành.
Tựa như một cái “túi hút máu” đeo bám lấy cậu,
Mỗi phút mỗi giây, tôi đều nghĩ làm sao để bám được chắc hơn.
Tôi có một gương mặt đẹp,
Cố Dĩ Thành thích gương mặt ấy – từ lần đầu gặp mặt tôi đã nhận ra.
Tuổi trẻ bồng bột, tinh thần dồi dào – loại tình cảm này rất dễ bùng lên mạnh mẽ.
Tôi chẳng nói gì,
Giả vờ như mình không hay biết, cũng chẳng nhận ra điều gì cả.
Thỉnh thoảng vào cuối tuần hay kỳ nghỉ, tôi vẫn đi làm thêm vài ngày.
Ăn uống thì có thể bám víu, nhưng tôi không thể hoàn toàn phụ thuộc.
Bởi ngay cả bố mẹ tôi còn không thể tin,
Thì làm sao tôi dám hoàn toàn tin tưởng vào một người hàng xóm, một người bạn cùng bàn, một cậu bạn có thiện cảm với mình?
Thế nhưng đúng là… tôi đã sống bám như thế suốt ba năm trời.
04
Thật ra, những cô gái thầm thích Cố Dĩ Thành không hề ít.
Lúc lén lút, lúc công khai, tôi thường xuyên nghe thấy có người mắng tôi là đồ tiện nhân, không biết xấu hổ, dựa vào đàn ông mà sống.
Tôi không quá để tâm đến danh tiếng.
Nói thật thì, giờ tôi cũng chẳng có tư cách gì để mà quan tâm.
Nếu sau này bước vào xã hội, phải sống nhờ vào người khác để kiếm cơm, thì Cố Dĩ Thành chẳng khác gì nhà đầu tư chính của tôi.
Nhưng hiện tại, dù tôi dựa vào cậu ấy, Cố Dĩ Thành vẫn chưa từng đòi hỏi gì ở tôi.
Chỉ phải trả một chút danh tiếng, đổi lại là được ăn no, không đến mức chết đói – tính ra thì cuộc giao dịch này đâu có lỗ.Đọc full tại page Vân hạ tương tư
Những lời đàm tiếu đó, tôi không bận tâm.
Nhưng Cố Dĩ Thành thì để bụng lắm.
Cậu ấy không tìm ra được nguồn tin đồn, cũng không biết phải nói gì với tôi,
Chỉ là vô thức luôn quanh quẩn bên cạnh tôi, như sợ người khác sẽ đến nói xấu tôi.
Trông cậu lúc đó chẳng khác gì một con heo mập tự nguyện nhảy vào bẫy.
Tôi ngẩng đầu khỏi tập bài tập, nhìn bóng nghiêng của Cố Dĩ Thành in trên mặt bàn.
Ngũ quan cân đối, như được chạm khắc một cách tỉ mỉ.
Tôi đưa tay vẽ theo cái bóng trên bàn, nghĩ thầm:
Thật tuyệt.
Trên đời sao lại có người may mắn đến thế?
Được bố mẹ yêu thương, gia đình khá giả, học hành thông minh,
Chỉ cần học qua loa cũng dễ dàng vượt xa tôi – người học ngày học đêm, khổ sở hết sức.
Tôi ghen tị với cậu, tôi ngưỡng mộ cậu,
Nhưng đồng thời cũng đắc ý vì đã lợi dụng được cậu ấy,
Vì cậu ưu ái tôi, nên trong lòng không kìm được nỗi vui sướng nho nhỏ đầy ích kỷ.
Nhìn chằm chằm lâu quá, bóng của hàng mi trên mặt bàn khẽ lay động,
Cố Dĩ Thành hình như phát hiện ra gì đó, quay sang nhìn tôi.
Tôi vội vàng thu lại ánh mắt, tiếp tục cúi đầu làm bài tập.
Lương tâm mà tôi tưởng đã biến mất từ lâu, đột nhiên đau nhói một cái – dù rất chậm chạp.
Một người thuận buồm xuôi gió như cậu ấy, có lẽ chuyện xui xẻo duy nhất từng gặp từ trước tới giờ… chính là tôi.
Nhưng vừa quay đầu lại, liếc thấy cậu ấy chỉ mất hai phút đã giải xong bài toán mà tôi suy nghĩ suốt nửa tiếng đồng hồ…
Tôi lập tức điều chỉnh lại tâm trạng.
Con người thì không thể lúc nào cũng thuận lợi cả.
Thỉnh thoảng gặp chút đen đủi cũng là chuyện bình thường.
Gặp phải tôi, xét ra thì cũng chưa phải xui xẻo gì to tát.
Coi như ăn trước một vố xã hội, để sau này khỏi phải mất nhiều hơn.
05
Tết Nguyên Đán đầu tiên sau khi tôi đến thành phố B,
Bố mẹ của Cố Dĩ Thành đến đón cậu ấy sang thành phố khác ăn Tết.
Trước khi đi, cậu sợ tôi đói, nên đã mang đến cho tôi một tủ lạnh đầy há cảo, hoành thánh, mì gói, còn dặn người giao trái cây cứ tiếp tục mang đến, bảo tôi cứ nhận lấy.
Vẫn là cái lý do vụng về quen thuộc:
“Mua nhiều quá, ăn không hết, cậu giúp tớ giải quyết nhé.”
Cậu mặc một chiếc áo phao mỏng, hai má đỏ ửng, hơi thở hóa thành từng làn khói trắng, đưa cho tôi một mẩu giấy ghi số điện thoại:
“Nếu có bài nào không làm được, có thể gọi cho tớ.”
Tôi gật đầu nhận lấy tờ giấy.
“Đi đường bình an,” tôi nói, “Chúc cậu năm mới vui vẻ trước nhé.”
Cố Dĩ Thành là người tốt, cậu ấy xứng đáng có một cái Tết vui vẻ.
Thiếu niên ấy cười đến mức đôi mắt cong cong như trăng lưỡi liềm.
Nhìn chiếc áo bông trên người tôi ngắn cũn, cậu do dự một lát rồi cởi găng tay của mình đưa cho tôi:
“Năm mới vui vẻ, Giang Thanh Mạch.”
Chiếc xe ô tô con không rõ hiệu, ấm áp như bọc trong lò sưởi, đưa Cố Dĩ Thành rời khỏi tầm mắt tôi.
Tôi cũng không đứng ngoài trời lâu.
Trời lạnh quá.
Mùa đông là mùa thể hiện rõ nhất khoảng cách giàu nghèo.
Quần áo giữ ấm tốt, giày, quần, chăn đệm… tất cả đều đắt đỏ.
Tôi chưa đủ tuổi thành niên, thời gian có thể đi làm rất ít, mà việc làm thì lại càng hiếm.
Chiếc áo phao trên người Cố Dĩ Thành, tôi phải đi làm thêm nguyên tháng hè hoặc đông mới có thể mua nổi.
Mà sau khi mua rồi, cũng chẳng còn đồng nào.
Không đáng.
Thế nên tôi vẫn mặc chiếc áo bông cũ từ hồi cấp hai bố mẹ mua cho.
Hơi ngắn, hơi cũ, và không còn đủ ấm nữa.
Nhưng may mắn là phần lớn thời gian không cần ở ngoài trời, vẫn chịu được.
Tôi tìm được một công việc phụ bếp ở quán lẩu, để dành tiền mua sách tham khảo cho học kỳ sau.
Giao thừa, quán lẩu đóng cửa sớm, nhân viên ai nấy đều hớn hở về nhà ăn Tết.
Có một bàn khách ăn còn thừa rất nhiều đồ, quản lý tốt bụng cho tôi nhúng lẩu qua một lượt rồi gói mang về ăn.
Tôi cảm ơn liên tục, xách hộp đồ ăn về nhà.
Căn nhà xám xịt yên tĩnh đến mức rợn người.
Tôi không có điện thoại di động, cũng không đóng tiền truyền hình cáp.
Vừa đóng cửa, không khí lễ Tết ngoài kia liền bị ngăn cách hoàn toàn.
Chỉ còn lại một khoảng lặng chết chóc.
Tôi ăn hết phần lẩu còn lại một mình, rồi đọc sách một lúc.
Ban đầu định ngủ sớm, nhưng cứ lăn qua lăn lại, không sao ngủ nổi.
Cuối cùng, tôi quấn chăn thật dày, ngồi co ro trên ghế sofa, ngẩn người nhìn chiếc điện thoại bàn trong nhà.
Tôi cũng không rõ mình đang đợi điều gì, hoặc còn có thể đợi được gì nữa.
Nhưng tôi cứ thế nhìn chằm chằm vào nó.
Thời gian lặng lẽ trôi.
Tôi nghe rõ ràng tiếng đếm ngược từ TV nhà hàng xóm vọng lại:
Năm… bốn… ba… hai… một…
Ngoài cửa sổ, pháo hoa và tiếng pháo nổ vang rền trời.
Nhà của mấy người hàng xóm đang rộn ràng chúc mừng năm mới.
Tôi cũng lấy một chiếc gương ra, nhìn thẳng vào chính mình và mỉm cười nói:
“Chúc mừng năm mới.”
Ngay khoảnh khắc tiếp theo, trong tiếng pháo hoa nổ vang không dứt, chuông điện thoại bàn đột ngột vang lên.
Tôi sững người một lúc, nhìn nó đổ chuông đến bảy tám hồi mới cuống quýt nhấc máy.
Sau tiếng “xoẹt xoẹt” của đường dây điện thoại, là giọng nói trong trẻo đầy sức sống của thiếu niên:
“Giang Thanh Mạch, chúc mừng năm mới.”
Bên kia đầu dây, là một khung cảnh ấm áp, náo nhiệt.
Có tiếng trò chuyện, tiếng tivi, tiếng pháo nổ.
Áp sát vào tai, tôi như thể cũng đang được sống trong sự ồn ào rộn ràng đó.
Tôi bật cười không kiềm được:
“Chúc mừng năm mới, Cố Dĩ Thành.”
Người tốt, thật sự chẳng được báo đáp gì tốt.
Một người tốt như Cố Dĩ Thành, sao lại gặp phải tôi chứ?